Cho đến năm 1930 và vài năm sau đó, sách triết học vẫn được viết cho độc giả bình thường.Ví dụ như tiêu đề của tác giả người Anh Jeremy Collier: A Short View of the Immorality and Profaneness of the English Stage, together with the Sense of Antiquity upon this Argument (Một cái nhìn thiển cận về sự đồi bại và trần tục của sân khấu Anh, cùng ý thức chống lại điều này của người xưa).Nếu trong sách có lập luận, bạn phải biết lập luận nằm ở đâu và có thể tóm gọn chúng lại.Lấy ý kiến của người khác không phải là trả lời mà là lẩn tránh các câu hỏi.Những câu hỏi cần phải trả lời trong lần đọc kiểm soát gồm: (1) Đó là loại sách gì? (2) Toàn bộ cuốn sách nói về vấn đề gì? (3) Trật tự cấu trúc của cuốn sách mà qua đó tác giả phát triển ý đồ hoặc hiểu biết của mình về chủ đề chung của cuốn sách là gì? Bạn có thể và cũng nên ghi chú những ý liên quan đến các câu trả lời cho những câu hỏi này, nhất là khi bạn biết rằng phải nhiều ngày hoặc nhiều tháng sau bạn mới có thể quay lại đọc cuốn sách ở cấp độ phân tích.Muốn học từ sách giả tưởng, chúng ta phải tự suy nghĩ về những bài học đó; còn để học được từ nhà khoa học và triết gia, trước hết bạn phải hiểu những gì họ nghĩ.Ví dụ, cuốn Elements (Các yếu tố) của Euclid được chia thành mười ba phần hay mười ba quyển và bạn có thể tách riêng cuốn thứ nhất ra đọc mà vẫn có thể hiểu được.Câu hỏi thứ nhất (Cuốn sách viết về cái gì?) không thay đổi nhiều lắm.Xét trên phương diện này, đây là kiểu đọc chủ động nhất.Tất cả những định nghĩa trên, có cái ý nghĩa quá hẹp, có cái lại quá rộng.
